Nguyễn Hoàng (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm
1613) là người tiên phong trong việc mở rộng bờ cõi đất nước xuống phía nam, mở
đầu cho việc hùng cứ phương nam của 9 chúa Nguyễn, tạo tiền đề cho việc thành lập
vương triều nhà Nguyễn bao gồm 13 vua; nhưng cũng là người mở đầu cho cuộc chiến
tranh Trịnh - Nguyễn sau này.
Nguyễn Hoàng (sinh tại Gia Miêu ngoại
trang, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa) là con trai thứ 2 của
Chiêu Huân Phụ Tiết Tĩnh Công Nguyễn Kim (1468 - 1545) và Bà Chính thất Nguyễn
Thị Mai, con gái của Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Thư Vệ Sự Nguyễn Minh
Biện (quê ở Phạm Xá, tỉnh Hải Dương). Theo Phả hệ họ Nguyễn ở Gia Miêu, ông là
hậu duệ của Nguyễn Bặc.
Năm 1527, xảy ra sự biến Mạc Đăng Dung
cướp ngôi vua Lê Cung Hoàng, lúc ấy Nguyễn Hoàng mới lên 2 tuổi. Nguyễn Kim đã
phải tránh sang Lào, xây dựng lực lượng, tìm cách khôi phục nhà Lê. Nguyễn Kim
để Nguyễn Hoàng lại cho em ruột là Nguyễn Ư Dĩ nuôi dưỡng.
Thực là hổ phụ sinh hổ tửLúc Nguyễn
Hoàng 20 tuổi, Nguyễn Ư Dĩ thường khuyên Nguyễn Hoàng lập công danh sự nghiệp.
Nguyễn Hoàng làm quan dưới triều Lê, lúc đầu được phong là Hạ Khê hầu, cầm quân
đánh Mạc Phúc Hải (con trưởng Mạc Đăng Doanh), chém được tướng là Trịnh Chí ở
huyện Ngọc Sơn, được vua khen:
Dưới triều nhà Lê trung hưng, ông là một
tướng tài lập nhiều công lớn, được vua Lê Trung Tông phong tước Thái úy Đoan Quốc
Công.
Năm 1545, cha ông là Nguyễn Kim bị
Dương Chấp Nhất đầu độc, quyền lực trong triều rơi vào tay anh rể ông là Trịnh
Kiểm, anh cả là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết, do lo sợ bị anh rể lúc đó đang
kiểm soát binh quyền của nhà Hậu Lê sát hại đã cho người tìm đến Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm để xin lời khuyên, Trạng Trình đã nhìn hòn non bộ và ngâm rằng:
“Hoành
Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”
Ông nhờ chị ruột mình là bà Ngọc Bảo
(vợ Trịnh Kiểm) xin Trịnh Kiểm xin cho vào trấn thủ ở Thuận Hoá (là khu vực từ
Quảng Bình đến Thừa Thiên-Huế ngày nay). Trịnh Kiểm thấy Thuận Hóa là nơi xa
xôi, đất đai cằn cỗi nên Trịnh Kiểm đã đồng ý, bèn tâu vua Lê Anh Tông nên cho
Nguyễn Hoàng vào trấn thủ (1558).
Năm 1558, Nguyễn Hoàng và gia quyến
cùng các tướng Nguyễn Ư Dĩ, Mạc Cảnh Huống, Văn Nham, Thạch Xuyên, Tường Lộc,
Thường Trung, Vũ Thì Trung, Vũ Thì An và hàng nghìn đồng hương thân tín Thanh -
Nghệ đi vào Thuận Hóa. Khi đến nơi, đoàn thuyền đã đi vào cửa Việt Yên (nay là
Cửa Việt), đóng trại tại Gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Vũ Xương (nay là huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị) và đã chọn nơi này để lập Thủ Phủ gọi là dinh Ái Tử. Lưu
Thủ Thuận Hóa Tống Phước Trị (quê ở Tống Sơn, Thanh Hóa) đã dâng nộp bản đổ, sổ
sách trong xứ cho Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng, và theo phò tá ông.
Mùa đông năm 1560, Nguyễn Hoàng cho đặt
đồn cửa biển giữ miền duyên hải, do bấy giờ quân Mạc thường theo đường biến vào
cướp Thanh Nghệ nên phải đề phòng.
Tháng 3 năm 1568, Tổng trấn Quảng Nam
là Bùi Tá Hán mất. Vua Lê lấy Nguyễn Bá Quýnh làm tổng binh thay giữ đất ấy.
Năm 1569, Nguyễn Hoàng ra Thanh Hóa yết
kiến Lê Anh Tông, nộp quân lương giúp Nam triều đánh nhà Mạc, rồi đến phủ Thái
sư lạy mừng Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm hài lòng, phong cho ông trấn thủ luôn đất Quảng
Nam, thay cho Quận Công Nguyễn Bá Quýnh. Nguyễn Hoàng làm Tổng Trấn Tướng Quân
kiêm quản cả Xứ Quảng Nam và Xứ Thuận Hóa. Lệ mỗi năm phải nộp thuế là 400 cân
bạc, 500 tấm lụa.
Tháng 1 năm 1570, Nguyễn Hoàng từ Tây
Đô về, dời dinh về làng Trà Bát, nằm gần Ái Tử, chếch về phía đông bắc (nay là
hai làng Trà Liên Đông, Trà Liên Tây, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong). Gọi
là Dinh Trà Bát.
Năm 1571, Tham đốc Mỹ Lương, thự vệ
Văn Lan và Nghĩa Sơn định đánh úp Nguyễn Hoàng ở dinh Vũ Xương. Mỹ Lương sai
Văn Lang và Nghĩa Sơn đem quân phục ở huyện Minh Linh rồi tự mình dẫn quân lẻn
theo đường núi đến chỗ Cầu Ngói ở Hải Lăng mai phục, định ngày giáp đánh. Nguyễn
Hoàng biết được tin ấy liền sai phó tướng Trương Trà đánh Nghĩa Sơn, và tự đem
quân ngầm đến Cầu Ngói đánh úp Mỹ Lương và đốt trại. Mỹ Lương trốn chạy, bị đuổi
chém được. Trà tiến quân đến xã Phúc Thị, đánh nhau với giặc, bị Nghĩa Sơn bắn
chết. Vợ Trà là Trần Thị nghe tin nổi giận, mặc quần áo đàn ông thúc quân đánh,
bắn chết Nghĩa Sơn tại trận. Quân Văn lang thua, trốn về với Chúa Trịnh. Chúa
đem quân về. Phong Trần thị làm quận phu nhân.
Năm 1572, nhân lúc Trịnh Kiểm mới mất,
con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh nhau, nhà Mạc sai đem tướng Lập Bạo đem 60
chiến thuyền đánh vào Thuận Hóa, đổ bộ lên làng Hồ-xá và ở làng Lạng-uyển (thuộc
huyện Minh-linh) để tấn công Phủ Chúa nhưng đã bị Nguyễn Hoàng thân chinh đi
đánh, đóng giữ bên bờ sông Ái Tử. Lập Bạo bị bắt sống và giết chết do mỹ nhân kế.
Quân Mạc đem nhau đầu hàng, Nguyễn Hoàng cho hàng quân ở đất Cồn Tiên đặt làm
36 phường.
Tháng 3 năm 1586, vua Lê sai Hiến sát
sứ Nguyễn Tạo đến xứ Thuận Quảng làm sổ kê khai ruộng đất cày cấy đề thu thuế.
Tạo để cho các phủ huyện tự làm sổ, không đi khám đo đạc, làm sổ xong rồi đem về.Tháng
3 năm 1586, vua Lê sai Hiến sát sứ Nguyễn Tạo đến xứ Thuận Quảng làm sổ kê khai
ruộng đất cày cấy đề thu thuế. Tạo để cho các phủ huyện tự làm sổ, không đi
khám đo đạc, làm sổ xong rồi đem về.
Năm 1593, ông đưa quân ra Bắc Hà giúp
Trịnh Tùng đánh dẹp họ Mạc trong 8 năm trời rồi bị họ Trịnh lưu giữ lại do lo sợ
sự cát cứ và thế lực lớn mạnh của ông. Vua Lê phong ông là Trung Quân Đô Đốc Phủ
Tả Đô Đốc Chưởng Phủ Sự Thái Uy Đoan Quốc Công.
Năm 1599, Trịnh Tùng tự xưng là Đô
Nguyên Súy Tổng Quốc Chính Trượng Phu Bình An Vương và lập Phủ Chúa và các cơ
quan hành chính để làm đối trọng với Triều đình Nhà Lê, bộc lộ việc tiếm quyền
của họ Trịnh đối với vua Lê. Chúa Trịnh Tùng bấy giờ hống hách tuy không cướp
ngôi vua Lê, nhưng trong thực tế đã biến vua Lê thành bù nhìn và nắm quyền
chuyên chế lấn át quyền của Triều đình và tìm cách diệt các phe cánh phò Lê chống
Trịnh.
Năm 1599, Nguyễn Hoàng nhân việc Phan
Ngạn, Bùi Văn Khuê và Ngô Đình Nga nổi loạn chống lại với họ Trịnh ở cửa Đại An
(thuộc Nam-định), ông xin Trịnh Tùng cho mình đánh dẹp, để người con thứ năm là
Hải và cháu là Hắc làm con tin. Sau đó kéo quân theo đường Hải Đạo về Thuận
Hoá.
Sau khi Nguyễn Hoàng trở về, Trịnh
Tùng đã gửi thư dọa trách:
“Mới
đây bọn nghịch thần Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê, Ngô Đình Nga manh tâm bội phản,
cháu và cậu đã lo liệu việc binh, sai đi đánh dẹp, chẳng ngờ cậu không đợi mạng,
tự ý bỏ về, làm dao động nhân dân, không biết ấy là ý của cậu, hay là mắc kế bọn
kia… Cậu, trong việc binh, thường lưu tâm đến kinh sử, xin hãy xét nghĩ lại, đừng
để hối hận về sau”.
Để làm dịu tình hình, Nguyễn Hoàng đã
viết thư nhận lỗi, lấy thóc lúa vàng bạc ra Bắc cống nộp cho Trịnh Tùng, và hẹn
kết nghĩa thông gia. Mùa đông năm 1600, Nguyễn Hoàng đã gả con gái là Ngọc Tú
cho Trịnh Tráng, con cả của Trịnh Tùng.
Từ đó, Nguyễn Hoàng không ra chầu
ngoài kinh nữa, quyết 'rạch đôi sơn hà', lo phát triển cơ sở, mở mang bờ cõi,
phòng bị quân Trịnh vào đánh phá.
Năm 1600, sau khi từ Bắc trở về, ông dời
dinh sang phía đông của dinh Ái Tử, gọi là Dinh Cát.
Năm 1602, Nguyễn Hoàng cho lập dinh
Thanh Chiêm (Quảng Nam) giao cho công tử Nguyễn Phúc Nguyên làm trấn thủ. Năm
1604, Nguyễn Hoàng cho lập phủ Điện Bàn tách ra từ đất của phủ Triệu Phong của
Xứ Thuận Hóa, lệ thuộc xứ Quảng Nam. Phủ Điện Bàn sát nhập với 3 phủ Thăng Hoa,
phủ Tư Nghĩa và phủ Hoài Nhơn để thành lập Dinh Quảng Nam. Phủ Điện Bàn quản 5
huyện: Tân Phúc, An Nông, Hòa Vang, Diên Khánh, Phú Châu.
Xây dựng Dinh trấn tại Thanh Chiêm
trên đất phủ Điện Bàn ở bên bờ bắc Sông Chợ Củi, tục gọi là Dinh Chiêm và cử
công tử Nguyễn Phúc Nguyên làm quan trấn thủ.
Dinh trấn Thanh Chiêm có vai trò hết sức
quan trọng dưới thời Nguyễn Hoàng cũng như thời kỳ các Chúa Nguyễn kế nghiệp,
là cơ sở đào luyện các quốc vương của Đàng Trong (làm quan trấn thủ trước khi
lên ngôi Chúa Nguyễn), là trung tâm điều hành việc phát triển và hậu cần kinh tế
cho Đàng Trong, nhất là việc chỉ đạo hoạt động của thương cảng quốc tế Hội An,
là bộ tham mưu đảm bảo an ninh cho Dinh Quảng Nam, góp phần quan trọng bảo vệ độc
lập tự do và chủ quyền của Đàng Trong chống lại sự tấn công của Chúa Trịnh ở
Đàng Ngoài và mở rộng bờ cõi về phương nam.
Năm 1609, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã
cho xây dựng Chùa Kinh Thiên trên huyện Lệ Thủy ở Dinh Quảng Bình,Chùa Long
Hưng bên cạnh Dinh trấn Thanh Chiêm trên huyện Diên Phước, Dinh Quảng Nam (về
sau qua thời gian chùa bị hư hỏng) và Chùa Bảo Châu trên huyện Duy Xuyên, Dinh
Quảng Nam (nơi về sau Thống Thái Phó Mạc Cảnh Huống tu hành sau khi nghỉ hưu) về
sau bị quân Tây Sơn phá hủy khi chiếm được Dinh Quảng Nam vào năm 1774.
Lãnh thổ mở rộng thời Nguyễn Hoàng, gần
tương đương với tỉnh Phú Yên ngày nay. Trên bản đồ có vị trí các địa danh: Đèo
Cù Mông, Đèo Cả, Núi Đá Bia.
Năm 1578, quân Chiêm Thành kéo đến
đánh phá, Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh đem quân tiến đến sông Đà Diễn, Hoa
Anh đánh chiếm thành An Nghiệp, là một trong những kinh thành đồ sộ và kiên cố
nhất trong lịch sử Chăm Pa.
Năm 1597, Lương Văn Chánh đang là tri
huyện Tuy Viễn, trấn An Biên, nhận sắc lệnh của chúa Nguyễn Hoàng đưa chừng
4000 lưu dân vào khai khẩn vùng đất phía Nam của Đại Việt từ đèo Cù Mông (bắc
Phú Yên) đến đèo Cả (bắc Khánh Hòa). Ông cùng lưu dân từng bước khẩn hoang, lập
ấp; từng bước tạo nên những làng mạc đầu tiên trên châu thổ sông Đà Diễn, sông
Cái
Năm 1611, do quân Chăm Pa tiếp tục quấy
nhiễu vùng biên giới Hoa Anh, Nguyễn Hoàng đã sai Văn Phong đi dẹp, quân Chăm
Pa nhanh chóng bị đánh bại trước lực lượng của chúa Nguyễn. Vua Po Nit của Chăm
Pa phải rút quân xuống phía Nam đèo Cả. Sau đó vùng đất Hoa Anh này được lập
thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân, giao cho Lương Văn Chánh
làm tham tướng, Văn Phong làm lưu thủ.
Cho tới khi ông mất, giang sơn họ Nguyễn
trải dài từ đèo Ngang, Hoành Sơn (nam Hà Tĩnh) qua đèo Hải Vân tới núi Đá Bia
(Thạch Bi Sơn), gần đèo Cả, bây giờ là vùng cực nam Phú Yên, giáp tỉnh Khánh
Hòa. Diện tích 2 xứ Thuận Quảng rộng khoảng 45000 km².
Thu phục nhân tâm Không rõ vào năm
nào, hai gia tướng người Việt gốc Chăm của Tĩnh Công Nguyễn Kim là Vũ Thì An và
Vũ Thì Trung đã giúp Nguyễn Hoàng chiếm hữu Bãi Cát Vàng khi còn là một vùng đất
vô chủ mà không một nước nào phản đối hay bảo lưu. Như vậy, các Quần đảo Hoàng
Sa và Trường sa đã thuộc lãnh thổ và chủ quyền của Đại Việt - Việt Nam từ cách
đây 400 năm dưới thời Chúa Nguyễn Hoàng vào thế kỷ XVI.
Năm 1613, ông lâm bệnh nặng, cho gọi
người con thứ 6 Nguyễn Phúc Nguyên từ Quảng Nam về và căn dặn:
“Nếu
Bắc tiến được thì tốt nhất, bằng không giữ vững đất Thuận Quảng và mở mang bờ
cõi về phía nam. Đất Thuận Quảng này phía bắc có núi Hoành Sơn, sông Linh
Giang, phía Nam có núi Hải Vân và Bi Sơn, thật là đất của người anh hùng dụng
võ. Vậy con phải biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp
muôn đời”.
Ông cũng nói với các cận thần lúc hấp
hối bên giường bệnh:
“Ta
với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh
nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ, cho thành công nghiệp”.
Ban đầu mộ của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng
táng ở vùng núi Thạch Hãn, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong (nay thuộc huyện Hải
Lăng tỉnh Quảng Trị), về sau được cải táng lăng mộ chuyển về Núi La Khê tức Khải
Vận Sơn (nay thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế). Ban đầu Chúa Tiên
Nguyễn Hoàng được thờ tại Chùa Long Phước (nay thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng
Trị), về sau được Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên phối thờ cùng Tĩnh Công Nguyễn
Kim tại Chùa Thiên Mụ ở Phú Xuân (nay là Thành phố Huế) Năm 1804, vua Gia Long
(1780 - 1820) cho dựng Thái Miếu rộng mười ba gian để thờ các Chúa Nguyễn và
các công thần đời trước, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng cùng Hoàng hậu được thờ ở áng
chính giữa. Vua Gia Long hoàng đế nhà Nguyễn truy phong cho Nguyễn Hoàng miếu
hiệu là Thái Tổ, thụy hiệu là Triệu Cơ Tùy Thống Khâm Minh Cung Úy Cần Nghĩa Đạt
Lý Hiển Ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia Dụ hoàng đế và miếu hiệu là Thái Tổ.
0 Nhận xét